Tế bào diệt tự nhiên là gì? Các công bố khoa học về Tế bào diệt tự nhiên

Tế bào diệt tự nhiên (NK cells) là tế bào miễn dịch bẩm sinh quan trọng, nhận diện và tiêu diệt tế bào nhiễm virus và ung thư không đặc hiệu, chiếm 10-15% tế bào lympho. Được phát hiện từ năm 1970, chúng hoạt động qua hai cơ chế: giải phóng perforin và granzymes, tương tác với thụ thể kích thích hoặc ức chế. Vai trò chính của chúng là kiểm soát nhiễm trùng và giám sát phát triển khối u. Nghiên cứu về NK mở đường cho các liệu pháp điều trị bệnh, như kích thích tế bào hoặc chuyển gen trong điều trị ung thư và cải thiện ghép tế bào gốc.

Tế bào diệt tự nhiên (NK cells)

Tế bào diệt tự nhiên, hay còn gọi là tế bào NK (Natural Killer), là một loại tế bào miễn dịch quan trọng đóng vai trò chủ chốt trong phản ứng miễn dịch bẩm sinh. Được phát hiện lần đầu tiên vào những năm 1970, chúng thuộc nhóm tế bào lympho nhưng khác biệt với tế bào T và B bởi khả năng tiêu diệt tế bào nhiễm virus và tế bào ung thư một cách không đặc hiệu.

Cấu trúc và đặc điểm

Tế bào NK có nguồn gốc từ tủy xương và chiếm khoảng 10-15% tổng số tế bào lympho trong máu ngoại vi. Chúng được nhận diện bởi sự hiện diện của các thụ thể đặc biệt trên bề mặt, chẳng hạn như CD56 và thiếu thụ thể CD3. Với đặc điểm độc đáo, tế bào NK không dựa trên các kháng thể hay quá trình nhận diện kháng nguyên để hoạt động.

Cơ chế hoạt động

Tế bào diệt tự nhiên hoạt động chủ yếu thông qua hai cơ chế: giải phóng các hạt có chứa perforin và granzymes, và thông qua các thụ thể kích thích hoặc ức chế trên bề mặt tế bào. Perforin tạo lỗ trên màng tế bào mục tiêu, cho phép granzymes xâm nhập và khiến tế bào tự hủy.

Ngoài ra, tế bào NK cũng có thể tiêu diệt tế bào mục tiêu thông qua tương tác với các thụ thể kích thích hoặc ức chế, như NKG2D, Ly49 và KIR. Sự cân bằng giữa các tín hiệu từ thụ thể này quyết định khả năng tiêu diệt hay không của tế bào NK.

Vai trò trong hệ miễn dịch

Tế bào diệt tự nhiên đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm soát nhiễm trùng, đặc biệt là nhiễm virus, và giám sát sự phát triển của khối u. Nhờ khả năng nhận diện và tiêu diệt tế bào bất thường, chúng giúp ngăn chặn sự lây lan của nhiễm trùng và sự tiến triển của ung thư.

Ứng dụng lâm sàng

Trong những năm gần đây, nghiên cứu về tế bào NK đã mở ra nhiều hướng ứng dụng tiềm năng trong điều trị bệnh. Các liệu pháp đang được phát triển bao gồm tăng cường hoạt động của tế bào NK bằng cách kích thích hoặc chuyển gen, sử dụng tế bào NK trong liệu pháp miễn dịch chống ung thư, và cải thiện ghép tế bào gốc.

Kết luận

Tế bào diệt tự nhiên là một thành phần quan trọng của hệ miễn dịch bẩm sinh với khả năng tiêu diệt tế bào nhiễm virus và tế bào ung thư. Hiểu rõ về cấu trúc, chức năng và cơ chế hoạt động của chúng không chỉ giúp nâng cao kiến thức sinh học cơ bản mà còn mở ra nhiều hướng ứng dụng cho y học hiện đại.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "tế bào diệt tự nhiên":

Sự tiết HLA-G5 từ tế bào gốc trung mô người là cần thiết để ức chế chức năng tế bào lympho T và tế bào tiêu diệt tự nhiên, đồng thời kích thích các tế bào T điều hòa CD4+CD25highFOXP3+ Dịch bởi AI
Stem Cells - Tập 26 Số 1 - Trang 212-222 - 2008
Tóm tắt

Các tế bào gốc trung mô (MSCs) thu được từ tủy xương người trưởng thành là những tế bào đa năng đang được nghiên cứu sâu rộng trong y học tái sinh. Ngoài ra, MSCs còn sở hữu các đặc tính điều chỉnh miễn dịch với tiềm năng điều trị để ngăn ngừa bệnh ghép chống chủ (GvHD) trong chuyển giao tế bào huyết học đồng loại. Thực tế, MSCs có thể ức chế chức năng của tế bào tiêu diệt tự nhiên (NK), điều chỉnh quá trình trưởng thành của tế bào đuôi gai, và ức chế phản ứng của tế bào T đồng loại. Ở đây, chúng tôi báo cáo rằng phân tử kháng nguyên bạch cầu người không cổ điển (HLA) lớp I HLA-G chịu trách nhiệm cho các đặc tính điều chỉnh miễn dịch của MSCs. Dữ liệu của chúng tôi cho thấy MSCs tiết ra isoform hòa tan HLA-G5 và sự tiết này phụ thuộc vào interleukin-10. Hơn nữa, sự tiếp xúc giữa MSCs và tế bào T đã được kích thích đồng loại là cần thiết để đạt được sự tiết HLA-G5 đầy đủ và do đó, sự điều chỉnh miễn dịch hoàn chỉnh từ MSCs. Các thí nghiệm chặn sử dụng kháng thể chống HLA-G trung hòa cho thấy HLA-G5 đóng góp đầu tiên vào việc ức chế sự phát triển của tế bào T đồng loại và sau đó là sự mở rộng của các tế bào T điều hòa CD4+CD25highFOXP3+. Thêm vào đó, chúng tôi chứng minh rằng ngoài tác động lên hệ miễn dịch thích ứng, MSCs, thông qua HLA-G5, ảnh hưởng đến miễn dịch bẩm sinh bằng cách ức chế cả hai quá trình khử tế bào do tế bào NK và sự tiết interferon-γ. Kết quả của chúng tôi cung cấp bằng chứng rằng HLA-G5 được tiết ra từ MSCs là rất quan trọng cho các chức năng ức chế của MSCs và nên góp phần cải thiện các thử nghiệm lâm sàng điều trị sử dụng MSCs để ngăn ngừa GvHD.

Các tiết lộ về các xung đột lợi ích tiềm ẩn được tìm thấy ở cuối bài báo này.

Protein Nef của virus gây suy giảm miễn dịch ở người 1 hạ thấp các ligand của thụ thể kích hoạt NKG2D và ức chế sự tiêu diệt của tế bào tự nhiên (NK) Dịch bởi AI
Journal of General Virology - Tập 88 Số 1 - Trang 242-250 - 2007

Các tế bào tự nhiên (NK) là thành phần chính trong hệ miễn dịch bẩm sinh của cơ thể chống lại nhiều loại tác nhân gây bệnh khác nhau. Một số virus, bao gồm Virus gây suy giảm miễn dịch ở người loại 1 (HIV-1), đã phát triển các chiến lược để né tránh phản ứng của tế bào NK. Nghiên cứu này được thiết kế để đánh giá liệu HIV-1 có thể can thiệp vào sự biểu hiện của các ligand kích hoạt tế bào NK hay không, cụ thể là các phân tử human leukocyte antigen (HLA)-I-like MICA và ULBP, mà liên kết với NKG2D, một thụ thể kích hoạt được biểu hiện bởi tất cả các tế bào NK. Kết quả cho thấy rằng protein Nef của HIV-1 đã làm giảm sự biểu hiện trên bề mặt tế bào của MICA, ULBP1 và ULBP2, với tác động mạnh hơn đối với phân tử sau cùng. Hoạt động trên MICA và ULBP2 được bảo tồn tốt trong các biến thể protein Nef từ bệnh nhân nhiễm HIV-1. Ở các tế bào nhiễm HIV-1, sự biểu hiện trên bề mặt tế bào của các ligand NKG2D tăng lên nhiều hơn với virus thiếu Nef so với virus kiểu hoang dã. Phân tích đột biến của Nef cho thấy rằng sự hạ thấp ligand NKG2D có các yêu cầu cấu trúc khác với các hoạt động khác của Nef đã được báo cáo, bao gồm hạ thấp HLA-I. Cuối cùng, dữ liệu cho thấy rằng sự biểu hiện của Nef có những hậu quả chức năng đối với sự nhận diện của tế bào NK, dẫn đến sự giảm độ nhạy cảm với sự ly giải do tế bào NK gây ra. Những phát hiện này cung cấp cái nhìn mới về các cơ chế mà HIV-1 đã phát triển để thoát khỏi phản ứng của tế bào NK.

#HIV-1 #Nef protein #tế bào NK #ligand NKG2D #phản ứng miễn dịch
Nanogenerator mô phỏng virus được bao bọc bởi màng tế bào tiêu diệt tự nhiên với hiện tượng đảo hình kích hoạt bởi NIR và cơn bão •C/•OH cho liệu pháp đồng thời động học nhiệt - hóa học Dịch bởi AI
Advanced Science - Tập 9 Số 5 - 2022
Tóm tắt

Phương pháp điều trị ung thư dựa trên gốc tự do đã được áp dụng rộng rãi trong điều trị ung thư. Tuy nhiên, nó vẫn gặp phải những thách thức về hiệu quả cung cấp thấp và khả năng chọn lọc kém trong việc tạo ra gốc tự do đặc biệt hướng đến các khối u. Trong nghiên cứu này, một loại silica hữu cơ cầu nối disulfide có cấu trúc rỗng mô phỏng virus được thiết kế để kẹp giữ chất dẫn xuất •C 2, 2'‐azobis[2‐(2‐imidazolin‐2‐yl) propane] dihydrochloride (AIPH), sau đó được bao bọc bởi hợp chất quang nhiệt tái chế tannic acid (TA)/FeIII và tiếp tục được phủ bởi màng tế bào NK (tế bào tiêu diệt tự nhiên) để đạt được liệu pháp đồng thời nhiệt động–hóa động. Thiết bị phát nanogenerator này có thể đầu tiên lẩn tránh sự giám sát của miễn dịch thông qua cơ chế “bao bọc” bằng màng tế bào NK để tích tụ mạnh mẽ tại các khối u. Thú vị thay, nhiệt được kích thích từ laser NIR có thể kích hoạt sự vỡ màng tế bào NK cho hiện tượng “đảo hình” để phơi bày bề mặt giống virus, từ đó tăng cường sự tiếp nhận tế bào và đồng thời phá vỡ các liên kết azo của AIPH để tạo ra có kiểm soát •C tại chỗ. Tiếp theo, khi có sự kích hoạt của glutathione (GSH), nanogenerator phân hủy thông qua trao đổi disulfide-thiol và tạo ra hiệu quả •OH thông qua phản ứng TA-FeIII khởi đầu bởi pH lysosome; đáng chú ý là việc tiêu thụ GSH có thể khuếch đại căng thẳng oxy hóa nhằm tăng cường liệu pháp gốc tự do bằng cách làm yếu đi cơ chế tự bảo vệ của các tế bào khối u. Có thể hình dung rằng nanogenerator mô phỏng virus bảo bọc bằng màng tế bào NK, có sự kích hoạt liên tiếp bởi NIR/GSH với sự tạo ra •C/•OH có thể cung cấp một chiến lược hứa hẹn cho liệu pháp điều trị ung thư dựa trên căng thẳng oxy hóa.

ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG BỆNH NHÂN UNG THƯ PHỔI KHÔNG TẾ BÀO NHỎ ĐƯỢC ĐIỀU TRỊ BẰNG LIỆU PHÁP MIỄN DỊCH TỰ THÂN TẾ BÀO DIỆT TỰ (NK)
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 502 Số 1 - 2021
Mục tiêu: Đánh giá chất lượng cuộc sống (CLCS) của nhóm bệnh nhân (BN) ung thư phổi không tế bào nhỏ (UTPKTBN) được điều trị bằng liệu pháp miễn dịch tự thân tế bào diệt tự nhiên (NK). Đối tượng, phương pháp nghiên cứu: 5 BN UTPKTBN giai đoạn III-IV được điều trị bằng liệu pháp miễn dịch tự thân NK. Sử dụng thang điểm EORTC QLQ-C30 để so sánh CLCS của BN tại hai thời điểm trước và sau liệu trình điều trị (06 lần truyền). Kết quả: Sau 01 liệu trình điềm trị gồm 06 lần truyền, nhóm bệnh nhân điều trị bằng liệu pháp tế bào miễn dịch tự thân NK cho thấy có sự cải thiện đáng kể về chức năng thể chất (điểm số 92 – 93,33), chức năng nhận thức (86,67 – 93,33), chức năng xã hội (83,33 – 90), triệu chứng mệt mỏi (17,78 – 8,88), triệu chứng đau (4,16 – 0), khó thở (26,66 – 6,66), mất cảm giác ngon miệng (6,66 – 0), tiêu chảy (20 – 0), tài chính (33,33 – 20) và sức khỏe tổng quát (70 – 78,33). Kết luận: nhóm BN được điều trị bằng liệu pháp miễn dịch tự thân NK có sự cải thiện ở hầu hết các chỉ tiêu đánh giá về chức năng, triệu chứng bệnh và chất lượng cuộc sống tổng thể tại thòi điểm kết thúc trị liệu so với thời điểm trước trị liệu
#Ung thư phổi không tế bào nhỏ #Chất lượng cuộc sống #Liệu pháp tế bào miễn dịch tự thân #tế bào diệt tự nhiên NK
Phân tích vai trò của tế bào tiêu diệt tự nhiên trong phòng thủ chống lại Plasmodium chabaudi ở chuột Dịch bởi AI
Parasitology Research - Tập 82 - Trang 352-357 - 1996
Chuột đã hồi phục sau một lần nhiễm Plasmodium chabaudi ban đầu đã được chứng minh là có khả năng kháng lại nhiễm trùng thứ cấp. Trong nghiên cứu hiện tại, các tác giả đã điều tra cách mà các tế bào tiêu diệt tự nhiên (NK) tham gia vào khả năng kháng này. Các tế bào lách từ chuột C57BL/6 đã được kích thích bởi P. chabaudi có khả năng chuyển giao khả năng bảo vệ chống nhiễm P. chabaudi sang chuột đồng huyết chưa được kích thích, nhưng các tế bào lách từ chuột chưa được kích thích thì không thể. Các tế bào giàu T được tinh chế từ các tế bào lách đã được kích thích cũng có thể chuyển giao khả năng bảo vệ như vậy. Việc chuyển giao các tế bào NK từ các tế bào lách đã được kích thích không bảo vệ được chống lại nhiễm trùng thách thức. Tuy nhiên, việc loại bỏ các tế bào NK ở chuột chủ bằng cách tiêm một kháng thể đơn dòng chống NK1.1 đã dẫn đến tỷ lệ tử vong cao hơn so với các đối chứng. Những vai trò bảo vệ có thể của các tế bào NK trong nhiễm trùng P. chabaudi được thảo luận.
KHẢO SÁT SỰ THAY ĐỔI CÁC TẾ BÀO LYMPHO VÀ TẾ BÀO DIỆT TỰ NHIÊN NK MÁU NGOẠI VI Ở BỆNH NHÂN VIÊM PHỔI TẠI BỆNH VIỆN NHI TRUNG ƯƠNG
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 525 Số 2 - 2023
Mục tiêu: Bước đầu khảo sát sự thay đổi tế bào lympho T và dưới nhóm, tế bào lympho B và tế bào diệt tự nhiên (Natural Killer – NK) máu ngoại vi trong viêm phổi ở trẻ em. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 192 bệnh nhân viêm phổi từ 0 – 60 tháng tuổi tại Bệnh viện Nhi Trung ương. Các tế bào lympho T và dưới nhóm, tế bào lympho B và tế bào NK máu ngoại vi được xác định bằng kỹ thuật đếm tế bào dòng chảy trên máy FACS Canto-II sử dụng bộ Kit BD Multitest 6 color TBNK. Kết quả: Tỷ lệ các bệnh nhân có giảm số lượng tế bào lympho T máu ngoại vi là 24,48%, giảm số lượng các tế bào lympho TCD4 chiếm đến 36,46 % các trường hợp. Trong khi các tế bào lympho TCD8 tăng trong 28,13% các trường hợp. Tuy nhiên các bệnh nhân có tăng lympho TCD8 chủ yếu gặp trong viêm phổi do căn nguyên virus, ít gặp trong viêm phổi do vi khuẩn. Lympho B và tế bào NK chưa thấy có sự thay đổi rõ ràng trong viêm phổi ở trẻ em.
#Bạch cầu lympho #Tế bào NK #Viêm phổi #Bệnh viện Nhi Trung ương
Kích hoạt tế bào tiêu diệt tự nhiên bởi rituximab trong viêm mạch dị ứng đa giác mạc Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - Tập 21 - Trang 1-11 - 2019
Trong vài năm qua, kháng thể chống CD20 rituximab đã làm thay đổi sâu sắc cảnh quan điều trị viêm mạch dị ứng đa giác mạc (GPA). Ở đây, chúng tôi đã nghiên cứu xem liệu các tế bào tiêu diệt tự nhiên (NK) có thể đóng vai trò trong cơ chế hoạt động của rituximab trong GPA hay không. Sự giảm B tế bào, sự giải phóng chứa chất của tế bào NK, và sự biểu hiện của CD69 và CD16 trên tế bào NK đã được đo trong một loạt các thí nghiệm trong ống nghiệm sử dụng tế bào đơn nhân máu ngoại vi (PBMCs). Sự kích hoạt tế bào NK in vivo đã được nghiên cứu ở những bệnh nhân đang nhận truyền rituximab. Các tế bào đã được phân tích bằng dòng chảy màu bảy. Tế bào NK từ bệnh nhân GPA đã được kích hoạt bởi rituximab cố định. Ngoài ra, rituximab tan trong môi trường cũng kích hoạt tế bào NK, miễn là các tế bào B có mặt. Tế bào NK đã giải phóng chứa chất và biểu hiện dấu hiệu kích hoạt CD69 trong khi biểu hiện CD16 đã giảm. Sự kích hoạt tế bào NK bởi rituximab tan đi kèm với sự giảm B tế bào. Kháng thể chống CD20 thế hệ tiếp theo obinutuzumab cho thấy hiệu ứng mạnh mẽ hơn so với rituximab trong việc giảm B tế bào và kích hoạt tế bào NK. Cuối cùng, chúng tôi phát hiện rằng rituximab dẫn đến sự kích hoạt tế bào NK in vivo, miễn là các tế bào B không bị giảm do các truyền rituximab trước đó. Rituximab liên kết B tế bào kích hoạt tế bào NK trong GPA. Trong khi đó, tế bào NK tham gia vào cơ chế hoạt động của rituximab ở người, tiềm năng của chúng có thể được khai thác hiệu quả hơn, chẳng hạn bằng cách kỹ thuật Fc của các kháng thể điều trị.
#rituximab #tế bào tiêu diệt tự nhiên #viêm mạch dị ứng đa giác mạc #B tế bào #kháng thể chống CD20
Điều chỉnh hoạt động của tế bào diệt tự nhiên trong thiết lập vi liệu pháp tiêu diệt khối u và với thụ thể kháng nguyên kỳ tổ hợp Dịch bởi AI
Blood - Tập 126 - Trang 210 - 2015
Tế bào diệt tự nhiên (NK) là các lympho bào tự nhiên có khả năng tiêu diệt nhanh chóng các tế bào khối u, đặc biệt là những tế bào thiếu phân tử MHC lớp I. Tế bào NK cũng có thể tiêu diệt nhanh chóng các tế bào nhiễm virus herpes. Chúng tôi đã thiết kế một virus herpes tiêu diệt khối u (oHSV) để chọn lọc nhiễm, sao chép bên trong và ly giải glioblastoma (GBM), một khối u não tàn phá với tuổi thọ trung bình chỉ 15 tháng sau khi được chẩn đoán. Chúng tôi đã chỉ ra rằng sự thâm nhập nhanh chóng của tế bào NK hạn chế hiệu quả của oHSV trong GBM khi chúng cản trở sự sao chép và lây lan của oHSV [Alvarez-Breckenridge et al., Nat Med, 2012, 18(12):1827-34]. Trong nghiên cứu hiện tại, chúng tôi đã phát triển các liệu pháp GBM mới dựa trên tế bào NK bằng cách giảm thiểu sự thâm nhập của tế bào NK vào não để nâng cao hiệu quả của oHSV, trong khi trang bị cho tế bào NK trong não một thụ thể kháng nguyên kỳ tổ hợp (CAR) nhắm vào cả EGFR loại hoang dã và dạng đột biến của nó EGFRvIII, hai kháng nguyên liên quan đến khối u GBM. Chúng tôi sau đó đã điều tra các hiệu ứng tương hợp giữa tế bào NK EGFR-CAR và oHSV. Yếu tố tăng trưởng chuyển hóa (TGF)-β là một cytokine ức chế miễn dịch mạnh đối với tế bào NK [Yu et al, Immunity, 2006, 24(5):575-90]. Chúng tôi đầu tiên xác định xem hiệu quả của oHSV trong điều trị GBM có được tăng cường bởi việc ức chế hoạt động chống oHSV của tế bào NK bằng cách tiền điều trị với TGF-β hay không. Trong ống nghiệm, các tế bào NK được tiền điều trị bằng TGF-β có khả năng ly giải thấp hơn đối với các dòng tế bào GBM nhiễm oHSV và các tế bào gốc giống như GBM của bệnh nhân. Trong thí nghiệm sao chép virus, việc đồng nuôi cấy các tế bào GBM nhiễm oHSV với các tế bào NK được tiền điều trị với TGF-β đã làm tăng đáng kể titer virus. Trong một mô hình chuột GBM đồng huyết có hệ miễn dịch, việc tiêm TGF-β cho chuột mang khối u GBM trước khi tiêm oHSV đã ngăn chặn đáng kể sự thâm nhập và kích hoạt của tế bào NK trong não (P < 0.05). Trong các mô hình xenograft GBM người và các mô hình chuột GBM đồng huyết, điều trị TGF-β trong vivo trước liệu pháp oHSV đã dẫn đến ức chế sự thâm nhập của tế bào NK, ức chế sự phát triển của khối u và làm tăng đáng kể tuổi thọ của chuột mang khối u GBM (P < 0.05). Hơn nữa, việc tiêu diệt tế bào NK đã ức chế không hoàn toàn hiệu ứng tích cực của việc điều trị in vivo GBM bằng TGF-β đối với sự sống sót, gợi ý rằng TGF-β cũng có thể tác động trực tiếp lên các tế bào miễn dịch bẩm sinh khác như đại thực bào/microglia. Dữ liệu này chứng minh rằng một liều duy nhất của TGF-β trước khi tiêm oHSV làm tăng hiệu quả chống khối u đối với GBM ít nhất thông qua việc ức chế tạm thời các phản ứng miễn dịch bẩm sinh đối với sự nhiễm trùng oHSV. Tiếp theo, chúng tôi đã khảo sát xem hoạt động của tế bào NK có thể được tăng cường để nhắm mục tiêu trực tiếp vào các khối u não trong khi không tiêu diệt oHSV. Vì vậy, chúng tôi đã nhiễm cả tế bào NK-92 từ người và tế bào NK từ người nguyên phát để biểu hiện thụ thể CAR thế hệ thứ hai nhằm nhắm đến cả EGFR và EGFRvIII mà chúng tôi đã thiết kế. Hơn nữa, chúng tôi đã đặt câu hỏi liệu điều trị với tế bào NK EGFR-CAR cộng với oHSV có thể tạo ra sự hợp lực điều trị cho khối u não hay không. Trong ống nghiệm, so với các tế bào CAR-NK không bị chuyển giao, tế bào NK EGFR-CAR thể hiện độc tính cao hơn và sản xuất IFN-γ cao hơn một cách đáng kể khi đồng nuôi cấy với các tế bào khối u, cho cả tế bào NK-92 và tế bào NK nguyên phát (P < 0.01). Hơn nữa, hoạt động ly giải tế bào đối với các tế bào khối u đã có sự gia tăng đáng kể khi tế bào CAR NK được kết hợp với sự nhiễm oHSV-1 ở các tế bào khối u, so với từng liệu pháp đơn lẻ (P < 0.05). Trong các thí nghiệm trên chuột, để tránh việc tế bào EGFR-CAR NK làm sạch oHSV sau khi tiêm tế bào khối u vào chuột, chúng tôi đã tiêm hai tác nhân này theo thứ tự; tiêm tế bào NK EGFR-CAR trực tiếp vào khối u trước tiên dưới dạng tiêm đơn 2 × 106 tế bào, sau đó là sự nhiễm trùng trong não với 2 × 105 đơn vị tạo đốm oHSV năm ngày sau đó, có thể sau khi sự sống sót của tế bào EGFR-CAR NK đã giảm. So với các đối chứng xe hơi, việc tiêm nội sọ tế bào NK EGFR-CAR hoặc oHSV đều làm giảm sự phát triển của khối u. Tuy nhiên, sự kết hợp của tế bào NK EGFR-CAR và sau đó là sự nhiễm trùng oHSV đã khiến việc tiêu diệt các tế bào khối u trở nên hiệu quả hơn một cách đáng kể (P < 0.05) và kéo dài tuổi thọ cho chuột mang khối u khi so với bất kỳ liệu pháp đơn lẻ nào.
16. Mối liên quan giữa biểu hiện của Hexokinase 2 và virus epstein-barr trong u lympho tế bào nk/t
U lympho tế bào diệt tự nhiên/tế bào T (NK/TL) là một loại ung thư nguy hiểm hiếm gặp bắt nguồn từ sự biến đổi của tế bào diệt tự nhiên và tế bào T, tỷ lệ xuất hiện phổ biến tại các khu vực châu Á. Yếu tố nguy cơ của NK/TL là virus Epstein-Barr (EBV), một thành viên của họ herpesvirus. Biểu hiện của enzym Hexokinase 2 (HK2) từ lâu đã được chứng minh có vai trò trong quá trình đường phân và tăng sinh khối u ở một số bệnh ung thư. Nghiên cứu của chúng tôi được thực hiện trên 22 bệnh nhân được chẩn đoán mắc NK/TL nhằm tìm hiểu mối liên quan giữa HK2 và EBV trong sự phát triển của khối u. Biểu hiện của HK2 được thực hiện bằng kỹ thuật hóa mô miễn dịch (IHC); nồng độ EBV được xác định bằng phương pháp Realtime PCR. Kết quả cho thấy rằng 16 trong số 22 đối tượng nghiên cứu (72,7%) biểu hiện HK2 và có sự khác biệt đáng kể về nồng độ EBV giữa các khối u không biểu hiện HK2 và các khối u biểu hiện HK2 (p = 0,02). Kết quả nghiên cứu có ý nghĩa quan trọng và cho thấy cần có những nghiên cứu sâu hơn để làm rõ mối liên hệ giữa EBV và sự biểu hiện của HK2 trong cơ chế hình thành khối u NKTL.
#Hexokinase 2 #Virus Epstein-Barr #u lympho tế bào tiêu diệt tự nhiên/tế bào T
2. Đánh giá hoạt tính gây độc dòng tế bào ung thư phổi A549 của tế bào diệt tự nhiên in vitro
Tạp chí Nghiên cứu Y học - Tập 169 Số 8 - Trang 8-17 - 2023
Mục tiêu của nghiên cứu này nhằm đánh giá hoạt tính gây độc của tế bào diệt tự nhiên (NK) được lấy từ bệnh nhân ung thư phổi đối với dòng tế bào ung thư phổi A549. Hai mẫu tế bào NK1 và NK2 (E) được hoạt hoá, tăng sinh in vitro và sau đó tiến hành đồng nuôi cấy với tế bào ung thư phổi A549 (T) với tỉ lệ E:T là 1:1, 2:1, 5:1, 10:1, 20:1 trong 24 giờ và 48 giờ. Kết quả đồng nuôi cấy trong 24 giờ: ở tỉ lệ tế bào E:T lần lượt là 1:1, 2:1, 5:1 thì khả năng gây độc của tế bào NK vẫn yếu với tỉ lệ tế bào A549 sống hơn 90%. Tuy nhiên, ở tỉ lệ 10:1, 20:1 thì khả năng gây độc của tế bào NK thể hiện rõ rệt với tỉ lệ sống của tế bào A549 thấp nhất là 11,54%. Khi đồng nuôi cấy trong 48 giờ, tỷ lệ sống của tế bào A549 giảm nhiều nhất là 0,53% với tỉ lệ E:T là 20:1. Do đó, tỉ lệ sống của dòng tế bào ung thư phổi A549 bị ảnh hưởng rõ rệt, theo thời gian và theo tỉ lệ đồng nuôi cấy với tế bào NK.
#Tế bào diệt tự nhiên #ung thư phổi #tế bào A549
Tổng số: 15   
  • 1
  • 2